GS Đặng Hùng Võ: "Vấn đề là thuế nhưng đánh thuế như thế nào mới là quan trọng!"

GS Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường.
GS Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường.

Bộ Tài chính vừa ban bố Dự thảo tờ trình gửi Chính phủ về yêu cầu xây dựng Dự án Luật thuế tài sản. Theo đó, Bộ này đề xuất sẽ đánh thuế tài sản đối với đất ở, đất sinh sản, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp nhưng dùng vào mục đích kinh dinh hoặc để ở.

GS Đặng Hùng Võ - Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường đã san sẻ một số quan điểm với PV Dân trí xung quanh Dự án Luật hiện đang được dư luận khôn xiết quan tâm này.

"ép phải làm khi nguồn thu ngân sách thu hẹp"

Thưa ông, theo ông việc đánh thuế tài sản, trong đó cốt nhắm vào bất động sản, vào thời khắc này có hợp không?

-Đề xuất của Bộ Tài chính về thuế tài sản, trong đó chính yếu là đổi mới sắc thuế dùng đất phi nông nghiệp và đánh thuế vào nhà ở và các tài sản khác đầu tư trên đất không phải là phù hợp hay chưa vào lúc này, mà đây là điều tấm phải làm khi nguồn thu ngân sách nhà nước càng ngày càng thu hẹp trong hoàn cảnh tham dự các cộng đồng thương nghiệp tự do. Các sắc thuế xuất, du nhập gần như bị bãi bỏ hoàn toàn.

Hơn nữa, thuế đất, nhà ở và tài sản gắn liền với đất là một nguồn thu vững bền, không chỉ tạo nguồn thu hợp lý cho ngân sách, mà còn là một dụng cụ hiệu quả để điều tiết thị trường. Thứ nhất, khi đánh lũy tiến ở chừng độ cao sẽ ngăn ngừa đầu cơ, trữ nhà đất. Thứ hai, mọi cư dân đều phải có bổn phận đóng góp để phát triển hạ tầng, dịch vụ công cộng nơi mình ở, có như vậy thị thành hóa mới thành công.

Thứ ba, nguyên lý “thuế cao thì giá thấp và thuế thấp thì giá cao” tạo ra hệ quả của tăng thuế nhà đất là giá nhà đất sẽ giảm, dễ giải quyết nhà ở tại tỉnh thành. Thứ tư, khi cư dân thấy thuế nhà đất chiếm một phần đáng kể trong thu nhập thì cần cân nhắc cụ thể xem mình ở đâu là hiệp, ngăn được dòng người từ nông thôn đổ về tỉnh thành làm phá vỡ quy hoạch đô thị.

Các nước phát triển (G7), các nước công nghiệp mới (G20) đã thành công trong công nghiệp hóa, tỉnh thành hóa vì đã làm tốt việc chuyển vốn từ đất đai thành vốn tài chính, trong đó có thuế nhà dất. Theo tôi, như sắc thuế hao hao với giải pháp kỹ thuật tốt được ban hành từ 2005 thì thị trường BĐS nước ta sẽ không rơi vào khủng hoảng trong tuổi 2011 - 2013, không phải đi vay ODA để nâng cấp đô thị, ngân sách nhà nước không quá khó khăn và năng lực cạnh tranh nhà nước sẽ cao hơn.

Theo ông, mức thuế suất cũng như ngưỡng giá trị không chịu thuế có ăn nhập với bối cảnh Việt Nam? Ông có thể cho biết thêm về kinh nghiệm của các nước khác như thế nào?

-Từ các kinh nghiệm tốt của các nước, có thể rút ra một số kết luận mà ta có thể học tập để áp dụng. Thứ nhất, thuế dùng đất được ứng dụng như trách nhiệm đóng góp tài chính cho quốc gia của mỗi người dùng nguồn lực đất đai luôn được coi bình đẳng đối với mọi người.

Thuế này tạo nguồn thu chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách quốc gia, là nguồn thu chính cho ngân sách địa phương, dùng để đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công cộng. Sắc thuế này đánh trên giá trị đất đai với tỷ suất từ 1% tới 1,5%, đánh lũy tiến theo diện tích sử dụng. Nước ta cũng đánh thuế này theo giá trị đất đai nhưng với tỷ suất chỉ 0,03%, nguồn thu gần như không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 0,4% nguồn thu từ đất và khoảng 0,04% tổng thu ngân sách.

Thứ hai, thuế nhà ở lại không đánh theo giá trị mà đánh theo diện tích nhà ở trên đầu người với tỷ suất thuế phù hợp với từng vùng, có đánh lũy tiến theo diện tích để đảm bảo công bằng, trình bày bổn phận đóng góp của mỗi cư dân cho nâng cấp tiện ích công cộng tại khu dân cư mà mình đang sống. Khi đánh theo giá trị sẽ kìm hãm đầu tư nhà ở, không ai muốn đầu tư nhà có giá trị cao, người ta chỉ muốn ở những ngôi nhà không chắc chắn.

Thứ ba, các tài sản khác đầu tư trên đất được đánh thuế trên nguyên tắc khuyến khích những nơi có hệ số sử dụng đất cao, khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm tằn tiện sử dụng đất đai.

Thứ tư, sắc thuế sử dụng đất, thuế nhà ở, thuế tài sản gắn liền với đất không chỉ tạo nguồn thu ngân sách mà còn là dụng cụ quan trọng để ngăn ngừa tình trạng đầu cơ nhà đất; để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ngăn ngừa tình trạng có đất nhưng dùng kém hiệu quả hoặc không sử dụng; để điều tiết phân bố dân cư và hạn chế dòng người thiên cư vào các đô thị lớn trên nguyên tắc đánh thuế cao vào những khu vực thành phố cần giảm mật độ dân cư.

Thứ năm, nguyên lý căn bản của thị trường BĐS là “thuế cao thì giá thấp, thuế thấp thì giá cao” làm cho khi nâng mức thuế lên cao hơn sẽ tạo hệ quả thế tất là giá nhà đất sẽ giảm đi ứng, làm giảm hoài đầu vào đất đai trong sinh sản hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh nhà nước.

Thứ sáu, sắc thuế về nhà ở và tài sản đầu tư trên đất chỉ tụ tập vào những địa bàn phát triển, phù hợp với nguồn thu nhập của dân cư đối với từng thời đoạn phát triển, không tạo gánh nặng nghĩa vụ tài chính cho nhóm người nghèo, người có thu nhập thấp. trước nhất, chỉ nên đánh thuế nhà ở tại khu vực đô thị, khu vực ngoại vi thị thành và các khu vực nông thôn được quy hoạch trở nên tỉnh thành

"Đánh thuế như thế nào mới là điều quan trọng"

Ông đánh giá luật thuế này sẽ tác động như thế nào tới người dân, doanh nghiệp cũng như thị trường bất động sản?

-Vấn đề là thuế nhưng đánh thuế như thế nào mới là điều quan trọng. Tôi đã nói tới kỹ thuật đánh thuế hợp lý ở trên. Nếu đánh thuế hợp lý thì sẽ tạo ngữ cảnh tốt cho phát triển thị trường bất động sản. Người dân cần cân nhắc cụ thể cảnh ngộ của mình khi quyết định tham dự thị trường. Đầu tư trên thị trường bất động sản sẽ bản tính hơn, mang lại hiệu quả thật cho phát triển kinh tế giang sơn. Giá nhà đất sẽ thấp đi, tạo năng lực cạnh tranh cao cho nền kinh tế.

Hiện tại đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân nhưng đánh thuế tài sản liệu có đúng quy định và hiệp hay không, thưa ông?

-Câu chuyện sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay chỉ như một chủ trương chính trị, toàn dân đã trao quyền sử dụng gắn với nhiều quyền định đoạt cho người dùng đất. Quyền dùng đất đã trở thành tài sản của người sử dụng đất.

Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta được gọi là chế độ công hữu đất đai mở mang, không khác mấy so với chế độ sở hữu tư nhân hạn chế ở một số nhà nước khác. Việc đánh thuế dùng đất đối với đất thuộc chế độ công hữu mở rộng cũng không có gì trái về lý luận kinh tế - chính trị học.

Trên thực tại, cũng có ý kiến tỏ ra lo lắng vì cơ sở dữ liệu về nhà, đất của Việt Nam chưa đầy đủ. Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này và cần phải làm gì để bảo đảm công bằng?

-Đây là câu chuyện về hành chính thuế và đòi hỏi các giải pháp kỹ thuật để giải quyết. Đáng ra, kể từ khi Quốc hội quyết định một hệ thống đăng ký cho cả đất đai, nhà ở và tài sản đầu tư trên đất (2009) thì lo lắng này không còn nữa mới phải. Trên thực tại, hồ sơ địa chính cũng còn thiếu khá nhiều tài sản gắn liền với đất. Tất nhiên, thiếu dữ liệu nhà thì có thể giao cho tổ dân phố thẩm tra việc kê khai của từng hộ, từng nhà để có cơ sở tính thuế.

Từ một phía khác, cần ép để Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính gắn với tài sản gắn liền với đất để tính thuế nhà ở và tài sản gằn liền với đất chính xác hơn trong mai sau.

Có quan điểm đã từng nêu việc đánh thuế với căn nhà thứ 2, tuy nhiên, tại dự thảo lần này, Bộ Tài chính không đưa nội dung trên vào dự án. Theo ông so với phương án đánh thuế với căn nhà thứ 2 thì việc đánh thuế như dự thảo giờ có tối ưu hơn không?

-Đúng là việc kiến nghị đánh thuế ngôi nhà thứ hai là không ăn nhập với nước ta. Đây là cách học tập kinh nghiệm của Singapore rất vụng trộm. Nay lại kiến nghị đánh thuế nhà ở có giá trị từ 700 triệu đồng trở lên cũng là kiến nghị không chuẩn về kỹ thuật đánh thuế nhà ở.

Như trên đã phân tách, thuế đánh vào nhà ở mà đánh theo giá trị sẽ kìm hãm đầu tư nhà ở, cần đánh theo diện tích trên đầu người nhằm thể hiện sự đóng góp của mọi cư dân vào phát triển khu dân cư mình đang ở. dĩ nhiên, đánh thuế theo diện tích sẽ phức tạp hơn nhưng hiệu quả hơn và đúng hơn.

Như vậy, cả hai lần đề xuất của Bộ Tài chính đối với thuế nhà ở đều chưa xác thực, thiếu tính chuyên nghiệp. Việc đánh thuế nhà ở là cấp thiết, nhưng đánh như thế nào để không kìm hãm phát triển là yếu tố kỹ thuật cần tư duy kỹ lưỡng.

Phương Dung ghi

Nhận xét

Bài đăng phổ biến